3.3.3 Làm quen với hàm (1)

Mỗi hàm được đặc trưng bởi các đặc tính sau:
  • Tên hàm
  • Tham số của hàm
  • Kiểu dữ liệu trả về của hàm

Phần của mã xác định tất cả các phần tử này được gọi là khai báo hàm. Trình biên dịch phải biết khai báo hàm để biên dịch đúng lời gọi hàm (lời gọi hàm tiếng Anh là invocations). Việc khai báo hàm đôi khi được gọi là nguyên mẫu hàm (function prototype).

Một khai báo hàm không có thông tin chính xác về những gì mà hàm thực hiện. Thông tin đó được cung cấp bởi thân hàm (function body) , nó là một phần code riêng biệt, được đặt nằm trong ngoặc đơn. Một khai báo hàm kết hợp với thân hàm tạo thành cái gọi là định nghĩa hàm (function definition).

Giả sử chúng ta cần một hàm tính bình phương của bất kỳ số thực nào. Chúng ta có thể nhận ra rằng:

  • square sẽ là một cái tên hợp lý dành cho hàm; tất nhiên, chúng ta có thể đặt tên cho nó bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ: sqr, SecondPowerOf hoặc thậm chí là Vcl, Dcm … :)))) (mặc dù nó có lẽ không phải là một ý tưởng tốt)
  • hàm này sẽ cần một tham số: giá trị sẽ được dùng để tính bình phương; x sẽ là một tên tốt cho tham số này
  • kiểu dữ liệu trả về là float (giống kiểu của tham số)
Bây giờ thì chúng ta có thể viết được khai báo hàm như sau → Chú ý rằng float đầu tiên là kiểu trả về của hàm, còn float thứ 2 là kiểu của tham số.